Hệ thống xử lý bùn nạo vét thành vật liệu san lấp (Mobile Dredged Mud Treatment Station - MDMT Station) được phát triển bởi Công ty CP Tư vấn Đầu tư Công trình Hàng hải Việt Nam (MCIC) dựa trên công nghệ lõi K-DPM (Hoà trộn dòng khí nén) nhận chuyển giao từ Công ty AOMI – Tập đoàn Xây dựng hàng đầu Nhật Bản.

Từ năm 2013, Ông Trần Thành Trung – Chủ tịch HĐQT MCIC đã nhận ra khó khăn do thiếu hụt vật liệu san lấp trong bức tranh tổng thể của ngành xây dựng trong tương lai do các mỏ cát đang cạn kiệt dần. Với quy hoạch phát triển cảng biển trong 20 năm tới, mỗi năm sẽ cần khoảng 50 triệu m3 vật liệu san lấp. Bên cạnh đó, hoạt động buôn bán cát ngày càng trở lên hấp dẫn do lợi nhuận cao nên việc khai thác cát trái phép phát triển với quy mô lớn gây sạt lở bờ sông, thay đổi dòng chảy và lượng phù sa tự nhiên, gây triều cường, xâm nhập mặn, đe doạ các công trình ven sông và ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân.
Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện các dự án nạo vét, xã hội hoá tận thu cát, Ông Trung nhận thấy lượng bùn sinh ra từ quá trình sa bồi tự nhiên hàng năm rất lớn, cấp phép đổ thải trên cạn hay nhận chìm ngoài biển chỉ có tính tạm thời do nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Quy trình xin cấp phép liên quan đến nhiều cơ quan ban ngành địa phương và các bộ chủ quản, các đơn vị tiếp nhận bùn nạo vét dẫn đến quá trình hoàn thiện hồ sơ rất phức tạp, khó khăn, mất nhiều thời gian và tốn kém chi phí cho các doanh nghiệp.
Chính vì vậy, Hệ thống xử lý bùn nạo vét thành vật liệu san lấp sẽ là lời giải cho hai bài toán khó của ngành nạo vét và ngành san lấp. Nguồn bùn đáng lẽ sẽ phải tìm phương án đổ đi nay được xử lý và ứng dụng xây dựng cảng, khu công nghiệp,… Hơn nữa, bùn sau khi được xử lý có cường độ tùy biến và chỉ tiêu kỹ thuật cơ lý vượt trội so với cát truyền thống đảm bảo chất lượng thi công công trình.
Đặc biệt, đối với các thành phố có cảng biển đồng thời phát triển du lịch, việc ứng dụng công nghệ này vào thực tiễn có ý nghĩa đặc biệt đối với phát triển kinh tế song song với vấn đề bảo vệ môi trường.

Công nghệ lõi K-DPM trong Hệ thống xử lý bùn nạo vét thành vật liệu san lấp của MCIC sử dụng xi măng và các phụ gia khác đẩy qua ống trộn khí nén để cải tạo bùn mềm đã được Ông Akinori Sakamoto (người Nhật) tiên phong nghiên cứu từ năm 1992.
Sau nhiều năm nghiên cứu và hoàn thiện công nghệ, đến năm 1998 Ông Akinori Sakamoto đã được nhận nhận giải thưởng IADC từ ông Peter Hamburger- tổng thư ký IADC trong lễ bế mạc WODCON XV tại Lasvegas, Nevada, Mỹ tháng 7/1998, về đề tài nghiên cứu sử dụng xi măng, tro bay đẩy qua ống trộn khí nén để cải tạo bùn nạo vét.
Sau khi thành công ứng dụng công nghệ thi công cảng Nagoya Miền Trung nước Nhật năm 1999, công nghệ này bắt đầu được phát triển và lan toả nhanh chóng trong và ngoài Nhật Bản.
Công nghệ này đã được ứng dụng cho nhiều dự án quy mô lớn trên thế giới chủ yếu nhằm mục đích mở rộng quỹ đất, quy hoạch lấn biển, thi công xây mới cầu cảng, sân bay.
Điển hình là các công trình: Sân bay Chubu Nhật Bản (Năm 2002); Cảng Nâno Nhật Bản (Năm 2005); Sân bay Shanghai Pudong Trung Quốc (Năm 2005); Sân bay quốc tế Tokyo Nhật Bản (Năm 2009); Sân bay Tokyo Haneda Nhật Bản (Năm 2010); Vịnh Marina Singapore (Năm 2011); Cảng Tanjung priok –Indonesia (Năm 2013); Dự án Sigmaplan vùng Flander Bỉ (Năm 2013); Sân bay Đông Changi –Singapore (Năm 2014); Đảo Hoành Sa Trung Quốc (Năm 2015); Cảng New York Mỹ (Năm 2015).

TIÊU CHUẨN KỸ THUẬT THÍ NGHIỆM TIÊU CHUẨN NHẬT BẢN
・JGS 0131-2009:Test method for particle size distribution of soils
・JGS 0141-2009:Test method for liquid limit and plastic limit of soils
・JGS 0191-2009:Test method for bulk density of soils
・JGS 0221-2009:Test method for ignition loss of soils
・JGS 0211-2009:Test method for pH of suspended sois
・JGS 0231-2009:Test method for organic carbon content of soils
・JGS 0511-2009:Method of unconfined compression test of soils
・JGS 1431-2012:Method for portable cone penetration test
・JGS 0122-2009:Test method for water content of soils by microwave oven
・JGS 0821-2009:Practice for making and curing stabilized soil specimens without compaction
・JGS 1435-2012:Method for electric cone penetration test

KẾT QUẢ THỬ NGHIỆM MẪU BÙN YẾU ĐIỂN HÌNH TẠI VIỆT NAM
Quá trình thử nghiệm cho thấy, công nghệ ổn định bùn bằng xi măng có thể tạo ra được vật liệu có các tính năng tuỳ biến, cường độ theo yêu cầu: từ 1kg/cm2 đến 3kg/cm2.
Với tỷ lệ thử nghiệm 100kg xi măng/1m3 bùn, sản phẩm có kết quả vượt trội so với cát san lấp hiện nay: Kết quả nén UCS (28 ngày) đạt 2,5 - 3,0kg/cm2; Chỉ số xuyên côn > 800Kpa.
Hệ thống xử lý bùn nạo vét thành vật liệu san lấp sẽ là lời giải cho hai bài toán khó của hạng mục nạo vét và san lấp: Nguồn bùn đáng lẽ phải tìm phương án đổ đi nay sẽ được xử lý có cường độ tùy biến và chỉ tiêu kỹ thuật cơ lý vượt trội so với cát truyền thống đảm bảo chất lượng thi công công trình
LỢI ÍCH CÔNG NGHỆ
VIDEO GIỚI THIỆU CÔNG NGHỆ
LIÊN HỆ CHÚNG TÔI ĐỂ CÓ THÊM THÔNG TIN VỀ CÔNG NGHỆ
𝐂𝐎̂𝐍𝐆 𝐓𝐘 𝐂𝐎̂̉ 𝐏𝐇𝐀̂̀𝐍 𝐓𝐔̛ 𝐕𝐀̂́𝐍 Đ𝐀̂̀𝐔 𝐓𝐔̛ 𝐂𝐎̂𝐍𝐆 𝐓𝐑𝐈̀𝐍𝐇 𝐇𝐀̀𝐍𝐆 𝐇𝐀̉𝐈 𝐕𝐈𝐄̣̂𝐓 𝐍𝐀𝐌 (𝐌𝐂𝐈𝐂)
VP: Số 12 Hồ Sen, P. Dư Hàng, Q. Lê Chân, TP. Hải Phòng
Website: mcic-vietnam.com.vn
0989115202